Lịch sử Tu viện Ljubostinja

Theo viện phụ Sevastijan Perić, Ljubostinja là một trong những tu viện lớn nhất của Serbia nhưng lại ít thông tin lịch sử nhất, chỉ có ghi chép từ năm 1780 trở đi. Hầu hết các thông tin về tu viện từ khi thành lập đều được tổng hợp trên các tài liệu địa chính, văn bản giáo hội và các ghi chép khác.[1]

Từ nguyên

Theo truyền thống lâu đời nhất, trên địa điểm tu viện ngày nay từng có nhà thờ nhỏ Thánh Stefan. Cứ ngày 2 tháng 8 hàng năm lại tổ chức lễ rước thánh tích mang tầm toàn quốc (vasar). Phụ thân Milica là Vratko Nemanjić thuộc dòng quý tộc (dân gian gọi là anh hùng huyền thoại Jug Bogdan trong trận Kosovo) có vườn nho trên những ngọn đồi xung quanh. Một ngọn đồi từ đó có tên là đồi Bogdanovo (Bogdanjsko) cũng như ngôi làng mang tên Bogdanje. Có lần Hoàng thân Lazar đến dự lễ và gặp gỡ nàng Milica trẻ tuổi.[2] Tình yêu nảy nở giữa hai người rồi dẫn đến hôn nhân. Từ đó, mỗi năm Milica đều đến dự lễ tháng 8 mang theo nhiều quà tặng cho nhà thờ. Mong muốn lưu giữ mãi mãi ký ức về miền thôn dã lần đầu gặp gỡ chồng mình, bà quyết định xây một ngôi đền nguy nga thay thế nhà thờ nhỏ, vừa kính dâng lên Mẹ Thiên Chúa đồng thời kỷ niệm tình yêu hôn nhân mình. Từ đó đưa đến cái tên ljubvestan ↔ ljubvostin → ljubostinja - nghĩa là nơi chốn tình yêu, nơi tình yêu sinh ra, nơi tình yêu sôi sục, nơi tình yêu gặp gỡ.[3][4]

Còn cách giải thích khác ít phổ biến hơn bắt nguồn từ ljubo–pustinja nghĩa là tình yêu (của ẩn sĩ) với cuộc sống khổ tu. Đầu thời Trung cổ chứng kiến sự hưng thịnh của thành phố Županjevač gần Ljubostinja ngày nay. Županjevač có khu chợ riêng và là một trong những trung tâm giao thương của vùng Pomoravlje. Bên ngoài thành phố, trong các vịnh và dãy núi Gledić có rất nhiều ẩn sĩ riêng biệt tu tập. Cách giải thích thứ ba đến từ cách gọi một tảng đá giữa dãy Gledić và đỉnh Samar là ljupka stena (tảng đá đáng yêu, xinh đẹp).[5]

Công nương Milica

Bích họa Công nương Milica tại Ljubostinja (thế kỷ 15)
Thánh Petka có phần thi hài lưu giữ tại Ljubostinja (1400—1407), được coi là thánh tích quý giá nhất dân tộc Serb[6][7]

Theo truyền thống lưu truyền lại là Công nương Milica đã xây dựng tu viện Ljubostinja trong thung lũng sông Ljubostinjska và Sušička, nơi lần đầu gặp gỡ Hoàng thân Lazar từ thời con gái để rồi về sau trở thành bà Milica Nemanjić.[8] Bao quanh ba mặt tu viện là những ngọn đồi thuộc dãy núi Gledić - Iver phía bắc, Tatarna phía tây và Kamađore (Kamidžor) phía đông.[9] Năm 1388 bắt đầu dựng nền móng công trình. Sau những mất mát tại các trận Marica (1371) và Kosovo (1389), công nương có ý tưởng chăm sóc các góa phụ quý tộc Serb,[10][11][12] và sáng lập tu viện nữ đầu tiên ở Serbia.[13]

Đầu tiên là Uglješa Mrnjavčević tử trận Marica có vợ góa Jelena Mrnjavčević trở thành nữ tu sĩ Jefimija.[2] Milica và Jefimija có tình bạn khăng khít trong giai đoạn tu hành tại Ljubostinja.[12] Jefimija dùng chỉ vàng thêu bài thơ Pohvala knezu Lazaru (Lời ca tụng Hoàng thân Lazar), tác phẩm tiêu biểu cho văn học trung đại Serbia.[8]

Từ trận Kosovo năm 1389 đến năm 1393, nhiếp chính Milica trị vì cho đến khi con trai là Stefan Lazarević lên ngôi. Bà dành phần lớn thời gian tại Tu viện Ljubostinja ngoại trừ những khi gặp mặt chính phủ hoặc công tác ngoại giao cho Serbia.[14][15] Lịch sử tu viện gắn bó mật thiết với những năm cuối đời Milica.[12] Các sử gia cho rằng di sản triều Nemanjić của Milica để lại đã tạo điều kiện tiếp nối cho dòng chảy tinh thần và chính trị từ Nemanjić tới Lazarević.[16]

Biên niên sử ghi lại Milica đến thăm và giám sát cẩn thận công việc xây cất tu viện. Bà dâng tu viện lên cho Đức Mẹ an giấc và mở trường chép sách trong đó.[11] Khi Stefan nắm quyền, Milica trở thành nữ tu Evgenija và hoàn toàn lui về Ljubostinja. Nhưng danh tiếng và quyền lực của bà lại không hề giảm đi mà còn lớn hơn. Dù ở tu viện, bà vẫn giữ trọng trách phần nào quan hệ ngoại giao Serbia.[8][17] Trong thư dân Dubrovnik gửi sơ Evgenija vẫn gọi Miliba là đầy đủ tước hiệu quý bà phu nhân công nương của Raške và Novog Brda.[18] Constantine Thần học gia viết rằng bà không đơn thuần là một phụ nữ, mà còn là một "Odysseus thông thái".[2] Năm 1398, bà cùng Jefimija đến gặp con rể là sultan Bayezid I đang nổi hung buộc tội Stefan liên minh với quân Hung.[6] Không những thuyết phục được Bayezid tha cho Stefan, bà còn nhận đề nghị lấy thánh tích Thánh Petka để mang về Serbia và được sultan chấp thuận.[6][11][19] Thánh tích đầu tiên được giữ trong tu viện Županjevac rồi được chuyển đến Ljubostinja.[20] Grigorije Camblak đánh giá việc chuyển giao thánh tích thời Byzantine là niềm vinh dự cho toàn thể Serbia,[7] khẳng định vị thế thẩm quyền của quân chủ Serb.[21]

Đến cuối đời, cả hai nữ tu đều thực hiện lời thề Velika Shima (Shima Lớn) và nhận những tên tu hành mới, Milica hay nữ tu Evgenija có tên Efrosinija, còn Jefimija là Evpraksija.[2] Cả đời Milica được đồng tu và dân chúng tôn kính gọi là Milicom tức caricom (nữ vương) Milica,[22] hoặc công nương, sơ lớn nhất, hoàng hậu tiên vương và thái hậu.[23] Công nương Milica là tu viện trưởng đầu tiên de facto của Ljubostinja.[24] Không có thông tin về những người kế nhiệm Milica từ đó cho đến khi Ljubostinja trở thành tu viện nam.

Ngày 11 tháng 11 năm 1405, Milica tạ thế và được an táng trong quách bên trái. Vài tháng sau, tức năm 1406, Jefimija qua đời và được táng trong cùng lăng mộ Milica nhưng ở bên phải. Tu viện ngày nay vẫn lưu giữ di hài của họ cũng như của con trai Jefimija là Stefan Mrnjavčević. Các bức tranh gốc trong tu viện cũng ra đời khoảng thời gian đó, khả năng 1405-1409, muộn nhất là đến khi hai con trai Milica là Stefan và Vuk chống nghịch nhau.[25] Nhà thờ do họa sĩ Hy Lạp Makarije Zograf từ Zrze vẽ trang trí. Sau khi cả hai sơ qua đời, vua Stefan chuyển thánh tích Thánh Petka từ Ljubostinja đến Kalemegdan, có thể vào ngày 8 tháng 8 theo lịch mới ngay năm 1406 hoặc năm 1407 sau đó.[2][26]

Năm 1418, Ljubostinja chuyển thành tu viện nam.[27] Năm 1448, tu viện lần đầu tiên được tu sửa, lần thứ hai là năm 1661.[15] Cuộc khai quật khảo cổ đã khám phá ra kho chứa tiền nằm dưới sàn bệ thờ, tiền ngoại quốc có thể đã được dùng trong công tác tu sửa vào thế kỷ 17. Các tu viện trưởng lâu đời nhất được biết đến là Simeon (được đề cập năm 1481),[28] Simeon khác (ghi chép năm 1576 và 1581)[29] và Isaija (1643).[30] Có tư liệu cho rằng vào giai đoạn này đã bắt đầu diễn ra lễ rước thánh tích Thánh Stefan Tử Đạo vào ngày 2 tháng 8 theo lịch khi ấy. Nhiều sử gia về sau dựa vào chi tiết này để chứng thực các truyền thuyết về nhà thờ nhỏ nơi vợ chồng công nương gặp nhau.[31]

Thời kỳ hoang phế

Trong một thời gian dài đã tồn tại một ý kiến không chính xác rằng Ljubostinja bị hoang phế suốt cả thế kỷ 17.[32] Sevastijan Putnik ghi lại những ký ức lâu đời nhất của cư dân vùng Trstenik nói rằng tại Ljubostinja khi ấy, ban ngày chỉ nghe tiếng cu gáy, còn ban đêm là tiếng đậu nơi tháp chuông và mái vòm đổ nát.[32] Các ghi chép năm 1643 và 1673 cho thấy Ljubostinja hoạt động liên tục từ khi thành lập cho đến khi Người Serb di cư (1690). Cuối thế kỷ 17 có thể tu viện bị bỏ hoang nhưng đã hồi sinh trở lại đầu thế kỷ 18.[11]

Năm 1732 ghi dấu mốc trường thần học kinh viện Ljubostina nằm dưới sự quản lý của Cha Arsenio. Tu viện trưởng (igumen) Arsenije của Ljubostina giai đoạn khoảng 1720-1736 là một trong những giáo sĩ được kính trọng nhất thời ấy, linh mục và tu sĩ từ khắp Serbia đến học.[33] Ông là tu viện trưởng đầu tiên mà thân thế sự nghiệp được ghi chép phần nào, cũng như là người đầu tiên có danh tiếng đặt nền móng cho các trưởng lão về sau tiếp bước và có ảnh hưởng đến đời sống dân chúng, giáo hội.[34] Với giả thuyết Ljubostinja sau đó lại bị bỏ hoang, xuất hiện cái tên Arsenije "Vtori" (nghĩa là thứ nhì, có thể để phân biệt với Arsenje đầu tiên). Khoảng năm 1780, Aresnije này đã dọn sạch cây bụi nhà thờ, đuổi hết lũ cừu được chăn thả ngay trong tu viện.[35]

Tu viện đóng vai trò quan trọng trong Chiến tranh Áo-ThổCuộc nổi dậy Kočina (1788-1791) khi các tu sĩ Ljubostina giúp Áo chống lại quân Thổ Nhĩ Kỳ.[11] Tu viện trưởng Vicentije Jovanović thừa nhận đã che giấu quan binh Áo trong giai đoạn 1781-1788.[36] Tu viện chính là nơi kêu gọi dân Serb nổi dậy. Theo một số tư liệu, Koča Anđelković đã ẩn náu tại Ljubostinja sau khi nổi dậy thất bại, nhưng thông tin này còn gây tranh cãi.[37] Để trả thù, quân Thổ Nhĩ Kỳ cướp phá và đốt tu viện vào tháng 5 năm 1788.[38] Hầu hết các bích họa ban đầu đã bị phá hủy. Đám cháy cũng làm lộ ra kho báu của công nương Milica, trong đó có cất giấu vương miện Hoàng thân Lazar trong 400 năm.[11] Quân Thổ mang vương miện đó về Istanbul, nay vẫn còn. Tất cả các tu sĩ đều phải rời đi, kết thúc 18 năm lãnh đạo của Vicentije (1770-1788).[38] Ljubostinja chẳng còn gì nhưng vẫn bị phá hoại một lần nữa năm 1804, ngay trước khi nổ ra Người Serb nổi dậy lần thứ nhất.[39]

Thực ra tu viện không phải lúc nào cũng vắng bóng người. Ngay tại cuộc nổi dậy lần thứ nhất, giáo sĩ hiếu chiến Nastasije "Kazak" (hay "Cossack", thân với NgaCossack) nắm quyền quản lý tu viện.[40] Ông được ghi nhận là người hăng hái quyết liệt bảo vệ tu viện khỏi bị kẻ thù tấn công. Nastasije cùng với Karađorđe tổ chức đội quân tấn công quân Thổ.[39] Không rõ số phận Nastasije về sau ra sao, còn đến năm 1807 ghi lại công việc quản lý tu viện của một ông Spasoje nào đó.[41]

Tuy ghi chép lịch sử cho rằng Ljubostinja bị bỏ hoang trong những năm 1788-1804, một nghiên cứu cho rằng bức tranh trong nhà thờ đã được tu sửa lần thứ ba năm 1799. Do đó, không chắc Ljubostinja có thực sự bị hoang phế hay không, hay được các tu sĩ sơn sửa lại, nhưng cũng có thể đó chỉ là bàn tay của một họa sĩ vô danh lang thang.[42] Bên cạnh quan tài công nương Milica có một bức bích họa duy nhất từ năm 1799, trên đó viết: Dimitri Bassa, tôi tớ Chúa.[38]

Thời kỳ thịnh vượng

Trong thế kỷ 19, tu viện Ljubostinja được nhà cầm quyền Obrenović ưu ái và dâng hiến nhiều lần. Các thượng phụ cũng coi tu viện là điểm đến yêu thích và thường ghé thăm.[34] Giai đoạn này đánh dấu năm vị tu viện trưởng (Arsenije, Meletije, Janići, Danilo và Veniamin) đã cho tái thiết lại công trình bị tàn phá trước đó.[43]

Vào thời hoàng thân Miloš Obrenović, tu viện trưởng Arsenije Stefanović trùng tu lại Ljubostinja. Năm 1819 đánh dấu Arsenije nhậm chức bằng một vụ đẫm máu. Theo đó, Ngày thánh George thường tụ tập đông người và xảy ra cãi vã ẩu đả khiến một người chết, lễ hội cũng phải bãi bỏ. Arsenije cho xây dựng một ngôi nhà khác ở cảng, ngày nay gọi là Tư gia Miloš.[44] Khi đang lấy gỗ dựng nhà trong rừng gần tu viện, nhóm thợ tìm thấy bục giảng kinh khắc hình đại bàng hai đầu trên quốc huy Nemanjić chỗ cây sồi già. Giai thoại phổ biến hơn là tìm thấy bục giảng khi đốn cây sồi lấy gỗ cho tu viện.[45] Ngày nay, bục giảng được đặt ở gian giữa nhà thờ tu viện. Arsenije cũng dựng một cối xay nước, rồi đến năm 1822 được giáo sĩ Nicifor giúp đỡ dựng tường linh ảnh.[44]

Tu viện trưởng Meletije Marković đứng đầu Ljubostinja giai đoạn 1835-1842.[46] Ông tiếp bước người tiền nhiệm mở rộng lãnh địa ra những mảnh đất và cánh đồng màu mỡ chung quanh. Ông mua thêm ba cối xay và dựng mới một cối xay nữa, dựng tường rào quanh cổng, và lợp lại nhà thờ.[47] Hè năm 1839, thánh tích Stefan Đệ nhất được chuyển từ Kalenić đến Studenica,[48] đến ngày 20 tháng 8 đoàn đã dừng chân tại nhà thờ Ljubostinja.[49]

Khi chính thể Ustavobranitelji (Bảo vệ Hiến pháp) lên nắm quyền đã thực hiện nhiều việc trả đũa nhiều giáo sĩ từng ủng hộ Obrenović. Meletije là một trong những người đầu tiên bị trừng phạt, bị giải đến tu viện Rača sám hối, đến năm 1843 mới được trở về Ljubostinja,[50] nhưng tất nhiên không còn được giữ chức vụ. Tu viện được giao cho Makarija (Petrović) quản lý.[50]

Meletje lại trốn sang Áo, rồi đợi cho Giáo hội ra phép giải tội mới trở về Ljubostinja năm 1845. Ông nhận lại chức tu viện trưởng từ Makarija cho đến năm 1847 thì ngưng để tấn phong thành giám mục Šabac. Janićije (Mačužić) (tục danh Joanikije Obradović) lãnh đạo Ljubostinja trong thời kỳ thịnh vượng đỉnh cao.[51] Năm 1850-1851, Janićije cho dựng năm gác chuông, công trình phụ, bếp, chuồng ngựa, kho và cối xay nước.[52] Tu viện sở hữu đến tám cối xay nước và vườn cây ăn trái vươn ra tận bờ Tây Morava.[53] Hoàng thân Aleksandar Karađorđević cũng giúp cho phần tường và phần đánh chuông.[51] Nhà thờ được tái thiết hai lần năm 1848 và 1851, chủ yếu là sửa chữa lại phần phía trên, đặc biệt là vòm giả phía trên điện thờ.[11] Theo ghi chép của Joakim Vujić, Ljubostinja thời đó có một mái vòm chính phía trên gian giữa, và bốn mái vòm nhỏ phía trên thánh đường.[31] Những người thực hiện công việc tái thiết là kỹ sư Jan Nevole thuộc Bộ Nội vụ và thợ đá Vujica Petronijević.[31] Trong quá trình tu bổ tu viện, nhà thực vật học Josif Pančić đôi lúc đến thăm các điền trang Ljubostina để nghiên cứu động thực vật trong vùng.[54]

Кровни део храма, обновљен средином 19. века.

Năm 1859, dân làng Bogdanja gần đó phản ánh với chính quyền[lower-alpha 2] rằng các tu sĩ đã rào đất của họ, cướp rừng, đồng cỏ và vườn nho, bắt họ trả tiền gỗ; rằng họ đã đánh cắp gia súc từ đồng cỏ của họ, và trên hết là họ chôn người chết mà không cầu siêu, không thánh hóa nước Slav như điều buộc phải làm.[55] Trong lá thư gửi tới Hội đồng, dân làng nói không phải chịu đựng khó khăn như vậy ngay cả dưới thời người Thổ.[55] Trước đây cũng có những lời phàn nàn tương tự, nhưng nhà Obrenović ưu ái và dung túng cho Ljubostinja nên chỉ im lặng.[41]

Trong thời gian rất ngắn, tu viện thay đổi người đứng đầu liên tục, họ đến rồi sớm được thuyên chuyển sang nơi khác. Năm 1866, tu viện trưởng Janićije qua đời và hai năm sau Makarije (Milojević) mới là người đứng đầu,[56] bức tranh vẽ ông được treo trong nhà thờ cho đến khi quân Áo tới.[51] Trong khoảng 1866-1870, họa sĩ hàn lâm Nikola Marković vẽ trang trí tường linh ảnh.[57] Sau khi Makarije qua đời, Danilo (Marković) lãnh trách nhiệm giai đoạn 1871- 1875. Ông là người đặc biệt ham thích trồng cây ăn quảtrồng nho, để lại di sản lớn nhất cho Ljubostinja chính là những vườn mận và vườn nho.[58] Một vườn nho còn đặt theo tên ông là Danilovac, các sử gia đánh giá ông là giáo sĩ tầm thường nhưng một nhà kinh tế có kinh nghiệm.[58] Danilo qua đời vào giữa mùa hè năm 1875.

Năm 1870, tu viện thuộc Quận Jagodina, vùng Levačgiáo phận Beograd. Khi ấy, tổng cộng chỉ có bốn tu sĩ sống trong tu viện.[59]

Sau Danilo, tu viện được chuyển giao cho Teofilo,[52] Vicentije,[52] đến và năm 1878 là Venijamin (Pavićević).[58][60] Tháng 8 năm 1891 xảy ra vụ giết người, tu sĩ Vicentije (Stamatović) được phát hiện đã chết.[61] Vì nguyên nhân cái chết không được làm rõ, người ta cho rằng do mâu thuẫn giữa các tu sĩ với nhau.[62] Năm 1895, tài sản tu viện lên tới 1078 ha đất, trong đó có 990 ha rừng. Ngoài cánh đồng canh tác và đồng cỏ, còn có ba vườn nho và bảy vườn cây ăn trái. Vốn ròng lên đến hơn 18.000 dinar, và toàn bộ giá trị bất động sản Ljubostinja ước tính khoảng 42.000 dinar.[63] Theo điều tra dân số những năm ấy, Ljubostinja chiếm vị trí thứ tư đổ lên trong danh sách những tu viện giàu nhất Serbia.[43]

Thời kỳ hỗn loạn

Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, một loạt sự cố xảy ra ảnh hưởng đến danh tiếng và vị thế của tu viện. Việc thứ nhất vào năm 1898, tu viện trưởng Veniamin bị buộc tội tham ô và lạm dụng chức vụ.[61] Cùng năm, ông bị phế truất nhưng vẫn được phép ở lại cho đến khi qua đời và được chôn cất năm 1909. Thay thế cũng là Viktor (Stojaković) vốn cũng tai tiếng.[64] Giai đoạn ông quản lý đánh dấu tình hình tài chính tu viện bắt đầu suy giảm.[65] Năm 1903, Viktor bị cáo buộc các tội danh giống như người tiền nhiệm.[61]

Слика манастира Љубостиње из 1910. године.

Hai năm sau, Viktor mất chức, bị đuổi đi, rồi bị kết án tù, về sau ốm chết trước khi mãn hạn.[64] Năm 1905-1911, Viktor (Gizdavić) đến làm tu viện trưởng, không những không được lòng mà còn xung đột với giáo dân. Cuối cùng chính ông phải xin thuyên chuyển đi.[43]

Năm 1903, giữa những vụ lùm xùm này, theo lệnh vua Petar I Karađorđević, nhà nghiên cứu cổ vật nổi tiếng người Serb Mihajlo Valtrović đến tu viện để mở quan tài Milica. Mục đích là thu thập, tham khảo đồ trang sức, vương miện, phù hiệu hoàng gia Serbia trung cổ để chuẩn bị những đồ mới cho lễ đăng đăng quang sắp tới của nhà vua. Khi mở ra, Valtrović ngạc nhiên khi thấy Milica chỉ mặc chiếc áo choàng đen giản dị của một nhà tu hành. Hơn nữa, cơ thể của bà không bị tổn hại, và khuôn mặt giống y hệt trên các bức bích họa.[22] Giáo hội liền tận dụng cơ hội để phong thánh cho Milica và khôi phục danh tiếng đã bị tổn hại của tu viện. Kể từ đó, lễ thánh Đức Bà Evgenija được tổ chức ngày 1 tháng 8 hàng năm.

Năm 1911-1920, tu viện trưởng là Konstantin (Popović).[66] Ngày 24 tháng 10 năm 1915, khi Serbia nằm dưới sự chiếm đóng của quân Áo-Hung, quân Áo bố ráp tu viện, buộc tội Popović, tu sĩ Ruvim và Sevastijan che giấu tài liệu lưu trữ của Chính phủ Serbia.[67] Sevastijan (Putnik) là người trẻ nhất, đang theo học trường Tu viện ở Novi Hopovo,[68] bị giải về trại Asach của Áo, hết chiến tranh mới trở về được.[11] Trong ba năm bị chiếm đóng, về hình thức tu viện là trụ sở Cục Quản lý Lâm nghiệp, nhưng thực tế không khác gì trại tập trung.[69][70] Nhà thờ là nơi giam giữ những người Serb, người Ý bị bắt, hàng ngày họ phải vào rừng đốn củi.[13][69] Khi chiến tranh gần kết thúc, quân Áo vơ vét cướp phá tu viện sạch sẽ.[70] Ngoài những đồ vật vàng, bạc, đồng thau, họ lấy cả bốn quả chuông, cả thìa đĩa, khăn dùng rồi cũng không tha.[70]

Боравак у манастиру
Света литургија се суботом, недељом и празницима врши од 8 часова. Вечерње почиње у 17 часова. Током хладнијих зимских дана служба је премештена у зимску цркву, при Новом конаку. Будући да су конаци намењени искључиво за миран живот монахиња, у манастиру данас није могуће преноћити.[71]

Năm 1919, nhà khoa học phát minh Mihajlo Pupin đến thăm Ljubostinja.[72] Ngay sau đó, Cha Sevastijan thế chỗ Popović làm tu viện viện trưởng. Sevastijan Putnik tên khai sinh là Stevan Perić tại làng Samoš thuộc Banat.[68] Ông chính là người viết biên niên sử Tu viện Ljubostinja là tài liệu quan trọng về lịch sử và xây dựng tu viện ngày nay. Sách xuất bản năm 1927 và tất cả tiền bán sách được quyên góp cho trẻ mồ côi Ljubostina.[67] Biên niên sử bắt đầu với lời tựa trữ tình cho Ljubostinja, trong đó Sevajtijan nhấn mạnh về tình yêu và vẻ đẹp vĩnh hằng của công nương Milica.[73]

Mười hai năm sau, Platon (Milojević) (1932-1934) lên kế nhiệm nhưng chỉ được có hai năm. Tháng 3 năm 1934, giám mục Nikolay điều ông đến tu viện Veluće.[74] Platon trở thành tu viện trưởng nam cuối cùng tại đây, vì đến năm 1937, Giáo hội Chính thống giáo Serbia chuyển Ljubostinja tu viện nữ.[75] Mùa thu năm 1939, tu viện lại có người đứng đầu nữ là Mẹ Sara (Đuketić) sau 512 năm.[76] Trải qua những giai đoạn bị hủy phá, mẹ Đuketić tìm thấy kho tàng tài liệu quý giá nhất của tu viện là thư viện tại Tư gia Miloš, khi ấy có hơn một nghìn đầu sách.[77] Trong số sách quý phải kể đến ấn bản nghiên cứu tôn giáo đặc biệt De Imitatione Christi (1417) (Bắt chước Đấng Christ), của nhà thần học Hà Lan Thomas Kempijski.[77] Sách được in năm 1637 theo lệnh của Nữ bá tước Wallachia Elena Basarab.[78]

Nữ tu chịu khổ

Sara trở thành viện trưởng của Ljubostinja trong giai đoạn Chiến tranh thế giới thứ hai đầy khó khăn, bà được linh mục Nikon (Lazarević) giúp đỡ nhiều. Nikon là linh mục chính thức tại Ljubostina 1946-1961 nhưng đã giúp tu viện từ trước đó, khi ông còn là viện trưởng Kalenić. Di sản đóng góp lớn nhất của Nikon là xây Novog konak (Nơi ở mới) khi ấy được coi là đẹp nhất Nam Tư.[79] Kiến trúc sư cho Novog konak là Petar Bajalović, người nổi tiếng với các công trình như Tòa nhà di sản KolarcTòa nhà Luật khoa Đại học Beograd.[80]

Нови конак манастира.

Vào đầu chiến tranh, nhà trẻ cho bé trai được mở ở Trstenik, còn ở Ljubostinja là nhà trẻ nữ cho 12 bé gái không còn gia đình.[79] Khi ấy, tu sĩ Jakov (Arsović) hay còn gọi là Jakov Tumanski đến tu viện và ở lại trong vài năm.[81] Trong những năm đầu tiên quản lý Ljubostinja, Mẹ Sara được giám mục Nikolaj Velimirović quan tâm hỗ trợ, ông bị quản thúc tại gia 18 tháng tại Ljubostinja (từ Ngày Thánh Phêrô 1941 đến ngày 5 tháng 12 năm 1942).[5] Sara để lại cuốn sổ ghi chép dưới dạng hướng dẫn thuộc linh gồm những lời khuyên cho chị em tu hành.[76] Bà cũng để lại những tác phẩm lớn của mình, như ca khúc Zidanje Ljubostinje (Ljubostinja bằng đá). Cùng với Velimirović, , giám mục ŽižkaBanja Luka Vasilije Kostić và cháu trai giám mục Nikolaj là giám mục của Sabač-Valjev Jovan Velimirović cũng bị quản thúc tại đây.[79] Sáu mươi năm sau, Ela Trifunović Neuhaus người Do Thái đã lên tiếng bảo vệc chống những cáo buộc các giám mục đã bài Do Thái. Bà tiết lộ rằng Velimirović đã cứu mẹ cọn bà khỏi chết bằng cách giấu bà vào bao tải, còn mẹ bà được mặc áo choàng tu sĩ, và cũng được họ chăm sóc tại Ljubostinja.[82]

Sau khi Nikolaj rời đi cũng như tu viện Žiča bị đốt, người tị nạn và hàng chục tu sĩ Žiča đã đến Ljubostinja.[79] Trong số đó có tu sĩ Sava Maksimović bị quân Đức giết ngay sau đó. Một tu sĩ Žica khác bị bắt và bị giết ở Kruševac. Tu viện trưởng Sara bị buộc tội liên quan đến cả hai vụ bắt giữ và xử tử này. Ngoài ra, quân Chetnik còn cáo buộc bà tham gia vào vụ giết Jovan Gordić là con trai của chỉ huy Chetnik Nikola Gordić.[79] Ngược lại, quân phát xít buộc tội bà che giấu đài phát thanh Chetnik (được cho là người Anh cung cấp cho Nikolaj Velimirović). Mặc dù tuyên bố không đứng về phía nào trong chiến tranh và cửa tu viện mở rộng cho mọi người, nhưng các nữ tu vẫn bị cả Chetnik, Partisanquân Đức ngược đãi.[79]

Cùng lúc ấy lại diễn ra xung đột giữa viện trưởng Sara và Cha Sava Petrović giữ chức thẩm phán tòa án giáo hội tại Žič đã ra lệnh trừng phạt các nữ tu thô bạo quá mức, xung đột này kéo theo chia rẽ trong nội bộ nữ tu. Theo lời nữ tu viện trưởng sau này, có thể một trong những lực lượng tham chiến khi ấy, rất có thể là Chetnik, đã yêu cầu trợ giúp. Còn giai thoại khác thì nói một nữ tu vướng chuyện tình cảm, làm những người khác tức giận, họ báo cáo với LjotićevciGestapo, từ đó gây ra thảm cảnh chung cho cộng đồng.[83]

Вечерња служба у манастиру 2021. године.

Đầu năm 1943, một tờ giấy được ném qua cửa sổ với lời nhắn viện trưởng cùng các nữ tu hãy chạy trốn, nếu không sẽ bị giết.[79] Đồng thời, họ cũng nhận được các tin nhắn trái ngược viết đừng đi đâu, đừng âm mưu bỏ trốn, nếu không sẽ bị giết.[79] Đến cuối tháng 1 đã ghi nhận hai lần viện trưởng Sara suýt chết. Một lần là quân Chetnik đột nhập vào nhà thờ, nhưng các nữ tu đã giấu viện trưởng dưới bàn thánh (presto).[79]

Vào sáng sớm Lễ Hiển Linh băng giá, khi trời còn tối, một người làm công trong tu viện đã giấu tu viện trưởng trên xe trượt tuyết phủ đầy rơm và cỏ khô, rồi chở đến Trstenik, từ đó bà chạy tiếp đến Beograd.[79] Liền đó, quân Chetnik thông báo săn lùng các chị em gái của bà là Evgenia và Antonija cũng là những nữ tu kiên trình, kể cả nữ tu mới là Milka tâm giao và giúp việc cho Sara. Tối sau Lễ thánh Sava, quân Chetnik xông vào nhà nguyện bắt Antonia và Evgenia. Antonia bị giết trong tuyết, còn Evgenia bị thương mà không rõ vì sao sống sót được.[79] Evgenia lết được về tu viện, được chuyển đến bệnh viện rồi qua đời. Milka thì hoảng loạn tìm nơi ẩn náu. Vào đêm hai chị em của Sara bị bắt đi hành quyết, bà trốn dưới gầm giường. Cuối cùng, quân Chetnik cũng bắt được Milka, hãm hiếp, giết và ném xác xuống sông Morava.[84] Antonija được gọi là thánh tử đạo Ljubostinja và được chôn cất nơi cổng tu viện, còn Evgenia ban đầu được chôn ở Kruševac. Sau đó vài ngày, xác Milka nổi lên, nhưng dân làng sợ Chetnik trả thù nên không ai dám vớt chôn.

Trung tâm dòng tu nữ

Năm 1943, đồng tu cùng Sara là Mẹ Varvara (Milenović) đứng ra quản lý, rồi trở thành viện trưởng năm 1949. Bà là viện trưởng lâu nhất Ljubostinja, cho đến khi qua đời năm 1995. Trong hơn nửa thế kỷ chức vụ, Mẹ Varvara là nữ tu nổi tiếng nhất trong nước,[76] cố gắng khôi phục lại tu viện về mọi mặt. Được biết đến như một nhà tổ chức giỏi và kỷ luật kiên định, bà thành lập các xưởng dệt thảm trong tu viện, thậm chí còn xuất khẩu ra nước ngoài. Trên tất cả, bà mong muốn thành lập một trung tâm nữ tu lớn nhất ở Nam Tư, quy tụ hơn 50 chị em ở Ljubostinja.[76] Năm 1952 hoặc 1953, Justin Popović và cựu viện trưởng Sara về thăm. Sara mang thi hài Evgenija táng ngay cạnh mộ chị là Antonija.[74] Năm 1979, Ljubostinja trở thành di tích văn hóa đặc biệt quan trọng, được Cộng hòa Serbia bảo tồn ở mức cao nhất. Năm 1982, Damjan Lisinac đến làm cha sở và ở đến khi về hưu.[85]

Црква је препознатљива по својим китњастим розетама.
Бифора са сараценским луком објединила је утицаје са неколико поднебља.

Năm 1995, Mẹ Hristina (Obradović) lên kế nhiệm viện trưởng,[86] bà vốn phụ tá quản gia cho viện trưởng Varvara. Ngay từ khi còn trẻ, Hristina đã là một trong những cái tên nổi tiếng của Giáo hội Chính thống giáo Serbia vì là nữ tu đầu tiên lái ô tô (Lada). Thậm chí có lần bà còn bị dừng xe vì chạy quá tốc độ. Báo Nam Tư đưa tin việc này và gọi bà là nữ tu bay.[87] Dưới sự lãnh đạo của Mẹ Hristina, Ljubostinja xuất hiện nhiều hơn trên các phương tiện truyền thông. Năm 2002, một album gồm các bài thánh ca Byzantine được phát hành với sự tham gia của các sơ Ljubostinja trong 5 bài hát. Thực ra những bản thu âm có từ năm 1963.[88] Năm 2016, Hoàng tử Aleksandar và Công chúa Katarina Karađorđević đến viếng thăm mộ Công nương Milica.[89] Năm 2019, nhà văn đoạt giải Nobel Peter Handke cũng đến viếng mộ Công nương.[90]

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tu viện vốn giàu có nên bị thiệt hại lớn. Khi cải cách nông nghiệp (1945)[91]quốc hữu hóa (1958),[92] Ljubostinja bị tước đoạt hơn 1400 ha rừng và đất canh tác. Theo luật bồi hoàn, tài sản được trả lại cho tu viện hai lần vào năm 2009 và 2016.[93] Tổng diện tích trang viên Ljubostinja ngày nay là 1321,44 ha, trong đó 1298,90 ha (chiếm 98,3% diện tích) là rừng.[93]

Linh mục quản xứ hiện tại là cựu sinh viên Chủng viện Thần học Prizren thời Chiến tranh Kosovo, Cha Danijel (Stefanović) đã quảng bá Ljubostinja trên HramAgro TV. Tu viện nằm trên tuyến đường rượu vang và khu du lịch rượu vang của giáo xứ Aleksandrovačka, cũng nổi tiếng với sản phẩm rược vang của chính tu viên.[94] Ngoài ra, các nữ tu giữ truyền thống nuôi ong và sản xuất mật ong.[87]

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Tu viện Ljubostinja http://www.vrnjackabanja.biz/crkve.php http://andrijaradenicistoricar.com/images/pdf/Svet... http://monumentaserbica.branatomic.com/mushushu/st... http://www.cro-eu.com/forum/index.php?topic=1388.1... http://www.eparhijakrusevacka.com/arhiva/%D0%9C%D0... http://www.eparhijakrusevacka.com/arhiva/%D0%B2%D0... http://www.trstenicani.com/Nar_Univerzitet/jefimij... http://www.manastir-lepavina.htnet.hr/ovcarskiman8... http://www.svetidimitrije.no/crkva/srpski-manastir... http://www.manastir-lepavina.org/vijest.php?id=730...